ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN 1
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
|
|
NỘI DUNG ÔN TẬPHỌC KỲ II – NĂM HỌC 2017 – 2018
MÔN: LỊCH SỬ 6
* KHỐI 6
I) Khái niệm ‘‘thời Bắc thuộc’’
Thời Bắc thuộc là một khái niệm lịch sử chỉ khoảng thời gian từ sau thất bại của An Dương Vương năm 179 TCN, nước ta bị Triệu Đà thôn tính và sáp nhập vào nước Nam Việt. Từ đó nhân dân ta liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc thống trị cho đến khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 mới kết thúc, tất cả tổng cộng hơn 1.000 năm.
II) Quá trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và cuộc đấu tranh gìn giữ văn hóa dân tộc thời Bắc thuộc
1)Về kinh tế :
Công nghiệp, nghề sắt phát triển : các công cụ như rìu, mai, cuốc, dao… ; vũ khí như kiếm, giáo, mác… được chế tác và sử dụng phổ biến.
Nông nghiệp, nhân dân ta đã biết đắp đê phòng lụt, dùng sức kéo trâu, bò, trồng lúa hai vụ một năm và tiếp tục nghề trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi các loại gia súc lấy thịt và sức kéo
Các nghề thủ công truyền thống như nghề gốm, nghề dệt… phát triển.
Thương nghệp, các sản phẩm nông nghiệp và thủ công được mua bán, trao đổi ở các chợ làng. Chính quyền đô hộ giữ độc quyền về ngoại thương.
2)Sự phân hóa xã hội :
Các triều đại PK phương Bắc tổ chức bộ máy cai trị do người Hán nắm giữ mọi quyền hành
Trong tầng lớp quý tộc ngoài hào trưởng người Việt nay xuất hiện thêm các địa chủ người Hán.
Ngoài nông dân công xã, nay có thêm tầng lớp nông dân lệ thuộc (là những nông dân bị địa chủ cướp hết ruộng đất phải lệ thuộc và làm thuê cho chúng).
Tầng lớp nô tì ngày càng đông hơn trước
3)Sự truyền bá văn hóa phương Bắc (Hán) và cuộc đấu tranh gìn giữ văn hóa dân tộc :
Chính quyền đô hộ đưa người Hán sang ở lẫn với dân ta, mở một số trường học dạy chữ Hán tại các quận, huyện và tiến hành du nhập Nho giáo, Đạo giáo…và những luật lệ, phong tục của người Hán vào nước ta.
Nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh bảo vệ tiếng nói, chữ viết, phong tục và nếp sống của dân tộc ; đồng thời cũng tiếp thu những tinh hoa của nền văn hóa Trung Quốc và các nước khác nhằm gìn giữ bản sắc và làm phong phú thêm nền văn hóa của mình.
III. Các triều đại PK phương Bắc đã đô hộ nước ta và các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thời Bắc thuộc :
1) Nhà Triệu (207 - 111 tr.CN)
Sau thất bại của An Dương Vương năm 179 TCN, Triệu Đà sáp nhập đất đai Âu Lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
2) Nhà Tây Hán (còn gọi là Tiền Hán, 206 tr.CN - 25 s.CN)
Nhà Tây Hán lấy được Nam Việt vào năm 111 tr.CN, đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ rồi chia ra quận và huyện để cai trị.
3). Nhà Đông Hán (còn gọi là Hậu Hán, 25-220)- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43)
4). Nhà Đông Ngô (thời Tam Quốc, 229-280)- Cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (248)
5)Nhà Tấn (265-460) và Nam Triều (Tống, Tề, Lương, 420-588) cuộc khởi nghĩa Lý Bí (542 - 602).
Mùa xuân năm 542, Lý Bí tiến quân vây thành Long Biên. Quân Lương đầu hàng .Cuộc khởi nghĩa thành công.
Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là Thiên Đức, Lý Nam Đế đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch, Nhà vua còn cho dựng chùa Khai Quốc (sau này là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội).
6) Nhà Đường (618-907)-Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722) và của Phùng Hưng (trong khoảng 766-779)
Dưới đời nhà Đường, dân Việt liên tiếp nổi dậy, hai cuộc khởi nghĩa có tính chất rộng lớn nhất là của Mai Thúc Loan và Phùng Hưng.
7) Họ Khúc đặt nền móng tự trị (906) Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng (938)
Đến cuối đời nhà Đường, tình hình xáo trộn của Trung Hoa tạo thời cơ cho Khúc Thừa Dụ xây nền tự chủ (906), đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ kéo dài cả ngàn năm.
(Khúc Thừa Dụ 906-907 ; Khúc Hạo 907-917 ; Khúc Thừa Mỹ 917-930 )
Kế tục sự nghiệp của họ Khúc là Dương Đình Nghệ (931-937), một người làm quan dưới đời Khúc Thừa Mỹ. Cai quản đất nước được sáu năm thì Dương Đình Nghệ bị một thuộc tướng là Kiều Công Tiễn sát hại.
8) Ngô Quyền (897-944), tướng tài và đồng thời là con rể của Dương Đình Nghệ, đang cai quản Châu Ái, đem quân đi trừng phạt Kiều Công Tiễn.
Năm 938, Ngô Quyền làm chủ thành Đại La, quân Nam Hán tiến công. Ngô Quyền bèn bày thế trận thủy chiến, cho cắm cọc trên sông Bạch Đằng, đón đánh địch