CHƯƠNG II: NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ (THẾ KỶ XI - XII)
BÀI 10: NHÀ LÝ ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
1. Sự thành lập nhà Lý
- Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua.
- Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Triều Tiền Lê chấm dứt. Lý Công Uẩn được suy tôn làm vua à Nhà Lý thành lập.
- Năm 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên dời đô về Đại La, đổi tên là Thăng Long (Tp. Hà Nội ngày nay).
- Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt.
- Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý:
+Vua đứng đầu nắm giữ mọi quyền hành, theo chế độ cha truyền con nối. Giúp việc có các quan đại thần, các quan văn võ.
+Chia cả nước thành 24 lộ, phủ. Dưới lộ phủ là huyện, hương, xã.
è Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý đã quy cũ, chặt chẽ và hoàn thiện hơn so với thời Đinh – Tiền Lê. Đó là chính quyền quân chủ, nhưng khoảng cách giữa nhà vua với nhà dân không lớn. Nhà Lý luôn coi dân là gốc rễ sâu bền.
2. Luật pháp và quân đội thời Lý
a. Luật pháp:
- Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình Thư (Bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta).
* Nội dung: bảo vệ nhà vua, triều đình; bảo vệ của công, tài sản nhân dân; cấm giết trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp.
è Điểm mới của bộ Hình Thư là chú trọng bảo vệ sản xuất (cấm mổ trâu, bò) và bảo vệ tài sản của nhân dân.
b. Quân đội:
+ Gồm 2 bộ phận: Cấm quân và quân địa phương.
+ Thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”.
+ Gồm các binh chủng: bộ binh và thuỷ binh, kỉ luật nghiêm minh, huấn luyện chu đáo, được trang bị vũ khí, cung tên giáo mác.
è Quân đội được tổ chức quy củ, chặt chẽ. Nhà Lý thực hiện nhiều chính sách để củng cố và phát triển quân đội về số lượng và chất lượng.